Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012


Master Boot Record
Là một thuật ngữ được dân computer hay gọi là MBR (bạn sẽ thấy họ nhắc đến những chữ viết tắc nầy nhiều trên internet hoặc trao đổi). Ðây chỉ là một mảng dữ liệu về các partion trong máy, không hơn không kém!
Master Boot Record được tạo do hệ điều hành và dĩ nhiên mỗi hệ điều hành đều có cách tạo riêng biệt. Ví dụ, WinNT4 và Win2k sẽ có file boot.ini dùng như Master Boot Record. Mỗi khi khởi động máy, một chương trình chuyên làm việc loading hệ điều hành của WinNT là NT bootloader (một file loại .exe) sẽ dò tìm nội dung của file boot.ini để load hệ hiều hành cần thiết cho người dùng.
Riêng Windows 98 và Windows ME thì có chút khác biệt, chúng không có chương trình tìm hệ điều hành như NT bootloader và sẽ mặc nhiên load hệ điều hành tại phần partion đầu tiên trong hard disk, thông thường là phần partition C trong hard disk.
Theo mặc định thì MBR sẽ luôn được lưu giử tại ổ dĩa cứng thấp nhất (nếu bạn có nhiều ổ dĩa cứng thứ tự là 0,1,2....) và partition nhỏ nhất của nó (partition đầu tiên trong ổ dĩa số 0, để dể cho ví dụ, tôi tạm gọi nơi nầy là Boot Table). Ðây là một nơi rất quan trọng để BIOS tìm đến khi máy vừa khởi động. Tôi cũng xin nhắc lại để các bạn khỏi nhầm lẫn giửa MBRnơi để MBR. Một máy tính có thể có nhiều MBR (khi cài đặt một hệ điều hành, nhất là linux, bạn có thể cài MBR tại Boot Sector chứ không nhất thiết là tại Boot Table) tuy nhiên BIOS chỉ tìm đến Boot Table để dò tìm hệ điều hành mà thôi!  Một lổi lầm thường thấy khi bạn cài đặt nhiều hệ điều hành là cài sau khi cài đặt linux vào thì không vào được hệ thống Windows, và ngược lại nếu tái cài đặt windows thì Linux ... mất tiêu luôn! lý do là bạn khi cài đặt các hệ điều hành, thằng nào cũng muốn thảy cái MBR của nó vào Boot Table cả! cho nên thằng nào cài đặt sau sẽ xoá hết thông tin của thằng trước đó!  tôi nghĩ đây là gút mắc to nhất cho các bạn trong việc cài đặt nhiều hề điều hành, tuy nhiên chúng ta sẽ có cách dàn xếp ổn thoả để cho cả 3 hệ thống cùng tồn tại.  Ðó cũng là trọng tâm của bài viết.
Boot Sector
Boot Sector thật ra cũng là một mãng dữ liệu chứa thông tin về một partition nào đó, mỗi khi bạn tạo một partition mới thì một Boot Sector sẽ tạo kèm theo trên đầu nó để chứ thông tin về cái partition đó, ví dụ, Boot Sector sẽ cho bạn biết có bao nhiêu Megabyte trong partition, từ điạ chỉ đầu và cuối của nó trong hard disk, còn trống bao nhiêu.... Dĩ nhiên là cấu trúc của mỗi Boot Sector sẽ khác nhau tùy theo hệ điều hành bạn dùng để tạo nó. 

Bàn lại vấn đề

Tới đây tôi xin bàn lại vấn đề cài đặt 3 hệ điều hành (WinME hoặc Win98, Win2k, và Linux RedHat 7.1). Tiến trình khởi động của một máy tính bao gồm trước tiên là khởi động BIOS từ Motherboard, BIOS sẽ "nhảy" (tìm) đến Boot Table (chứa MBR) để tìm và khởi động hệ điều hành dựa theo thông tin từ MBR. Nếu có nhiều hệ điều hành, BIOS sẽ tự động khởi động hệ điều hành đầu tiên mà nó tìm thấy.
Dĩ nhiên là xong xong với quá trình nầy BIOS sẽ kiểm tra tín hiệu nhập từ bàn phím và kết hợp với thông tin từ MBR để chọn (và khởi động) hệ điều hành. Bạn có thể chọn khởi động hệ điều hành bạn thích bằng cách can thiệp từ bàn phím.
Tới đây bạn sẽ thấy một vấn đề thường gặp khi chúng ta cài đặt hai hệ thống Windows và Linux là sự tranh dành việc quản lý Boot Table. Ðối với hệ thống Windows thì hầu như bạn không gặp cản trỡ nhiều khi cài đặt hai hệ điều hành chung với nhau, theo luật thông thường thì bạn nên cài đặt hệ điều hành version mới hơn sau cùng, ví dụ, bạn nên cài đặt Win98 hay WinME trước, sau đó mới cài đặt Win2k bởi vì Win2k mới hơn. Một đặt điểm của đáng trách của hệ thống Windows là chúng chỉ cài đặt MBR tại Boot Table mà thôi trong khi đó hệ thống Linux cho phép bạn tùy ý cài đặt MBR tại Boot Table hoặc tại Boot Sector.  Ðể dàn xếp xự tranh dành nầy, tôi sẽ cài MBR của hệ thống windows vào Boot Table và cài MBR của Linux vào Boot Sector của nó. Sau đó tìm cách sửa MBR của hệ thống windows để nó cộng thêm Linux trong khi khởi động máy.

Tiến hành cài đặt
Trước tiên bạn nên có 2 cái CD linux 7.1  và các CD của win ME, win2k .... tôi nêu ra một số tình huống căn bạn như sau để bạn tiện tham khảo:
Tình huống thứ nhất: nếu bạn đã có sẵn hai hệ thống Windows (Win98 hoặc WinME, và Win2k) trên một cái HDD.  Bạn kiểm tra xem hai hệ thống kia đã chiếm hơn 8032MB chưa? Tương tự như hệ thống NT4, Linux Redhat 7.1 sẽ không nhận dạng được dĩa cứng trên 8Gig.  Bạn sẽ có thể gặp khó khăn khi tạo partition cho Linux. Riêng Mandrake 8.0 thì có khả năng nhận dạng được tất cả.  Ðể tránh tình trạng nầy bạn nên cài Linux lên partition của Win2k (bạn sẽ xoá Win2k! Chú ý backup dữ liệu!) sau đó cài Win2k lại sau vì Win2k có thể nhận dạng partition nằm ngoài 8Gig.
Tình huống thứ hai: nếu bạn đã có sẵn hai hệ thống Windows (Win98 hoặc WinME, và Win2k) và có 2 ổ dĩa cứng! Bạn có thể cài Linux vào một trong hai ổ dĩa cứng kia miễn sau nó phải nằm trong phạm vi 8Gig là tốt.
Tình huống thứ ba: bạn cài mới tất cả!
·         Ðầu tiên bạn nên tạo một partition cho WinME độ 5Gig là quá đủ rồi, cài đặt WinME vào
·         Cài đặt linux Redhat 7.1 vào, trong quá trình cài đặt bạn nhớ chú ý đến việc bỏ MBR của nó vào Boot Sector! Khi cài đặt bạn nhớ tạo đĩa mền khởi động của RedHat, nhớ giữ nó để sau nầy bạn mới có thể khởi động vào linux được!
·         Cuối cùng là tiến hành cài đặt Win2k, chắc bạn không có gì khó khăn với Win2k cả. 

Chỉnh sửa MBR

Trước tiên bạn nên dùng floppy disk cho linux để khởi động vào linux. Sau khi log in (xin xem bài tutorial) bạn nên làm một số việc sau
1) Tìm một cái floppy (được format với Win hoặc DOS) còn trống ít nhất là 1k
2) bạn (tôi cho là bạn biết dùng một số lệnh linux căn bản, giống như dos, xem thêm ở tutorital một số lệnh căn bản của Linux) dùng editor nào đó như vi để mở file sau /etc/lilo.conf
3) sau đó nhìn hàng đầu xem cái boot sector của linux nằm ở đâu, bạn sẽ thấy đại khái như boot=/dev/hdxy.  Trong đó x là số thứ tự hard disk cuả bạn (a, b, c, ...) và y sẽ là số thứ tự của partition (1, 2, 3, ....).  Giả sử bạn biết kết quả là /dev/hda2 đi nhe! (để là ví dụ)
4) tạo một directory /tmp (nếu chưa có) sau đó mount cái floppy disk (FAT system) vào directory /tmp rồi copy 512 byte đầu của cái partition (/dev/hda2) bạn vừa tìm được vào floppy. Nếu bạn không chắc thì làm như sau: bỏ đĩa floppy vào ổ đĩa và gõ các lệnh:
mount /dev/fd0  /tmp  -t  vfat
dd if=/dev/hda2 of=/tmp/linux.bin  bs=512  count=1
umount /dev/fd0
5) tới đây bạn sẽ có một file tên là linux.bin trong floppy disk!  Lấy dĩa floppy ra, reboot lại máy để vào Win2k
6) copy cái file linux.bin vào nơi nào đó trong ổ dĩa của Windows, ví dụ bạn bỏ vào C: đi nhé.
7) bạn dùng 1 chương trình text editor nào đó để open file boot.ini (chú ý đây là file hệ thống nên windows sẽ làm ẩn nó, bạn phải đặt options là hiển thị các file ẩn thì mới thấy nó được), thêm vào một hàng như thế nầy: c:\linux.bin="Welcome to my RedHat Linux"
8) reboot lại máy, bạn sẽ thấy một menu với ba hệ điều hành như ý bạn!
Chú ý:
dd: dump disk, nó tương tự như lệnh copy của dos nhưng dd sẽ copy theo kiểu binay có nghĩa là copy một cách chính xác machine data của đĩa.
a2: là đánh dấu mang ý nghĩa ổ dĩa cứng đầu tiên và partition số 2,
nhớ thay đổi chỉ số nầy phù hợp với vị trí cái linux của bạn nhé!!!!
if: input file, chỉ tên của input file, trong tường hợp nầy là ổ thứ tự của ổ dĩa cứng và partition nơi linux đang nằm
of: ouput file, tên của output file
bs: boot sector, chỉ số byte của một sector
count: đếm số lần copy
--> toàn bộ ý nghĩa của lệnh dd trên là copy cái Boot Sector (512 bytes) của linux vào floppy disk và đặt tên nó là linux.bin mà thôi!
!
acronic os selection


Cài đặt Firefox trên Linux
Lưu ý: Nếu bạn đang định nâng cấp từ một phiên bản Firefox cũ, xem Updating Firefox
Trước khi cài đặt Firefox, hãy chắc chắn rằng máy tính của bạn đáp ứng được các Yêu cầu về Hệ thống.
Nhiều bản phân phối Linux mặc định đã bao gồm Firefox, và hầu hết đều có một hệ thống quản lí gói cài đặt, cho phép bạn dễ dàng cài đặt Firefox. Nói chung, bạn nên cài đặt từ hệ thống quản lí gói. Hệ thống quản lí gói sẽ:
  • Đảm bảo cho bạn có tất cả các thư viện cần thiết
  • Cài Firefox theo cách thức phù hợp nhất với bản phân phối Linux đó
  • Tạo lối tắt để chạy Firefox
  • Để Firefox hiện hữu trên tất cả tài khoản người dùng của máy bạn
  • Giúp cho quá trình gỡ bỏ Firefox cũng giống như gỡ bỏ các chương trình khác
Trình quản lí gói cũng có nhược điểm:
  • Có thể nó sẽ không cung cấp cho bạn phiên bản Firefox mới nhất
  • Có thể nó sẽ cung cấp cho bạn một phiên bản không có thương hiệu Firefox
Cài đặt từ trình quản lí gói
Để cài đặt Firefox bằng cách sử dụng trình quản lí gói, vui lòng tham khảo tài liệu của bản phân phối Linux mà bạn đang dùng.
 
Cài đặt thủ công không dùng trình quản lí gói
Hướng dẫn đầy đủ cho việc cài đặt Firefox thủ công không dùng trình quản lí gói có thể có trên trang web hỗ trợ của bản phân phối Linux.
Các bước sau đây sẽ hướng dẫn cài đặt Firefox vào thư mục home, và chỉ có người dùng hiện tại mới chạy nó được.
1.     Tải Firefox từ trang tải Firefox về thư mục home của bạn.
2.     Mở một Terminal và giải nén nội dung của tập tin vừa tải.cd ~
tar xjf firefox-*.tar.bz2
1.     Đóng Firefox lại nếu nó đang mở.
2.     Để khởi động Firefox, hãy chạy tập tin mã kịch bản firefox trong thư mục firefox.
~/firefox/firefox
Firefox sẽ khởi động. Sau đó bạn có thể tạo biểu tượng trên desktop để chạy lệnh trên.
Lỗi libstdc++5
Như đã nói ở trên, bạn cần cài đặt các thư viện cần thiết để Firefox có thể hoạt động được. Nhiều bản phân phối mặc định không có libstdc++5 đi kèm.
Thông điệp "firefox not installed" hoặc Firefox chạy sai phiên bản
Bạn phải chạy Firefox bằng lệnh ~/firefox/firefox Nếu bạn cố gắng chạy Firefox bằng lệnh firefox nó sẽ khởi động phiên bản được cài bởi trình quản lí gói, hoặc nó sẽ báo là chương trình chưa được cài đặt.

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012


Hướng dẫn sử dụng phần mềm Partition Magic
I. Giới thiệu sơ lược về phần mềm và cách khởi động
A. Giới thiệu
+Tạo thêm partition mới, ghép 2 partition thành 1 partition, thay đổi kích thước, di chuyển một partition, chuyển đổi giữa các kiểu FAT16, FAT32, NTFS...mà không làm mất dữ liệu trên các partition đã có.
+Format partition, xoá partition, copy partition và thực hiện các chức năng nâng cao khác một cách nhanh chóng.

B. Các bước khởi động phần mềm
Bước 1 : Thiết lập trong Bios việc khởi động CD-Rom đầu tiên
Bước 2 : Ở giao diện cửa sổ Hiren’s Boot CD , chọn dòng Start BootCD
Bước 3 : Ở cửa sổ Hiren’s All in 1 BootCD , chọn dòng Disk Partition Tools …
Bước 4 : Chọn phần mềm Partition magic pro 8.0.5(version tuỳ thuộc vào đĩa Hiren mà bạn mua)
Bước 5 : Chương trình Partition magic khởi động
Màn hình chính của PartitionMagic gồm:
1. Là Menu của chương trình, ngay phía dưới là ToolBar.
2. Một loạt các khối "xanh,đỏ" biểu thị các partition hiện có trên đĩa cứng hiện thời của bạn.
3. Là bảng liệt kê chi tiết về thông số của các partition hiện có trên đĩa cứng.
4. Nút Apply dùng để ghi các chỉnh sửa của bạn vào đĩa (chỉ khi nào bạn nhấn Apply thì các thông tin mới thực sự được ghi vào đĩa).
5. Nút Exit thì chắc là bạn biết rồi! Nhấn vào Exit sẽ thoát khỏi chương trình.

II. Hướng dẫn cách phân chia ổ đĩa , thay đổi kích cỡ dung lượng ổ đĩa , Format partition và ghép 2 partition thành một
A. Tạo Partion

Bước 1: Ơ giao diện chương trình partition magic
Bước 2 : Bấm chuột phải vào phân vùng trống của ổ đĩa và chọn Creat ...
Bước 3 : Thiết lập các thông số ổ phần vùng cần chia

1.
Thiết lập ổ đĩa là phân vùng chính hoặc phụ
2.
Định dạng ổ đĩa (FAT,FAT32,NTFS....)
3.
Tên ổ đĩa
4.
Dung lượng của ổ đĩa

Bước 4 : Tương tự với phân vùng còn lại của ổ cứng
Bước 5 : Bấm Apply để hoàn tất việc phân chia ổ đĩa
B. Thay đổi dung lượng ổ cứng
Bước 1: Chuột phải vào phân vùng cần thay đổi dung lượng chọn Resize/Move

Bạn có thể dùng chuột để "nắm và kéo" trực tiếp phần graph biểu thị cho partition (trên cùng) hoặc nhập trực tiếp các thông số vào các ô Free Space Before, New SizeFree Space After
1.
Là phân vùng nằm đầu tiên của ổ đĩa
2.
Là dung lượng ổ đĩa còn lại sau khi đã resize
3.
Là phân vùng sau cùng của ổ đĩa

Sau khi chỉnh sửa xong , các bạn bấm
Ok để hoàn thành

C. Format Partition


Bước 1: Chuột phải vào phân vùng cần format và chọn Format
Bước 2 : Chọn định dạng cần format và đăt tên phân vùng .Bấm OK để hoàn tất việc Format
D. Ghép 2 partition lại thành một

Bước 1 : Chuột phải vào phân vùng cần ghép và chọn Merge hoặc chọn Operations từ thanh Menu - Merge
Bước 2 : Ta gọi partition bị chuyển thành thư mục là partition khách; partition còn lại là partition chủ. Sau khi chọn kiểu ghép, bạn chọn tên cho thư mục sẽ chọn kiểu ghép, bạn chọn tên cho thư mục sẽ chứa nội dung (phần dữ liệu) của partition khách trong ô Folder Name.

Bước 3 : Bấm OK để tiến hành quá trình ghép
Lưu ý :
+ Bạn chỉ có thể ghép 2 partition nằn cạnh nhau (2 partition nằm cạnh nhau trong bảng liệt kê).
+ Sau khi ghép, partition mới sẽ có kích thước bằng tổng kích thước của 2 partition con.
+ Backup dữ liệu trước khi thực hiện quá trình ghép.
+ Quá trình ghép có thể sẽ được thực hiện trong một thời gian khá dài nếu như dữ liệu trong 2 partition ghép và được ghép là lớn.
Trân trọng !
Có 1 điều là khi sử dụng nó chỉ format nhanh nên khi cài lại win ta nên chọn chế độ format chậm.dùng ổ ở định dạng ntfs tốt hơn fat32.nên chia tất cả thành phân vùng chính (primary) để dễ quản lý.ổ nào dùng để cài win thì set active cho nó.nhưng khi ổ đã set active thì các ổ khác sẽ bị hidden.cần unhidden nó đi(các phần đó nằm trong thẻ Advanced thì phải).